Với 38 giờ học mỗi tuần, học sinh
còn bỏ thêm 5 tiếng nữa để sinh hoạt học đường (dọn vệ sinh, trực gác, liên lạc,
cào cát, trồng cây và tưới nuớc). Những tên tuổi khó quên phải kể đến Trần Sanh,
Đoàn Văn Nghệ, Lương Kính Hòa, Trần Binh Trọng, Văn Y. Cậu Khúc Cao Sơn con thầy
hiệu trưởng đi bộ 200m, còn cậu Nguyễn Thanh Long con Trung Tá Tỉnh Trưởng BĐ
thì ngồi xe hơi có cận vệ kèm theo. Mỗi lớp khoảng 45, chia thành 4 toán, bao gồm
một xóm nhà lá quen thuộc với dân chơi ngoài phố nhưng trong trường thì hiền
khô. Sau giờ tan học, bà con thường được xem mội cuộc so tài quyền cước của hai
“con gà” Nguyễn Văn Lý và Diệp Bảo Hòa một cách công khai theo đúng quy luật thế
thao.
Biệt lập với thị xã, xài chung điện từ bên Áo Xanh, Sư Phạm và Kỹ Thuật cùng tổ chúc chung một Lễ khánh thành hôm Thứ Tư, 3 tháng 10 năm 1962. Các vị Đại diện Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Bộ Trưởng Bộ Quốc gía Giáo dục Nguyễn Quang Trình đọc diễn văn tại Giảng đường bên Sư Phạm, nhưng buổi tối lữa trại, văn nghệ ngoài trời bên Kỹ Thuật thì quý vị giáo sinh vắng bóng không sang. Con đường gi sắt xuyên qua bãi cát len lỏi giữa những gốc dương xanh mướt, nối liền hai trường dựng lên trong 3 ngày chỉ qua lại mỗi một lần, và mãi mãi không bao giờ được nhắc đến, vẽ tranh, ghi nhạc hoặc phổ thơ.
Sau hai năm, bốn lớp Đệ Lục đầu tiên đó được chia thành hai nhóm tùy theo sự chọn lựa cả nhân. Khoảng một nữa theo Ban chuyên nghiệp gồm 5 Ban riêng biệt là Điện Kỹ nghệ, Cơ khí Ô tô, Kỹ nghệ Gỗ, Máy Dụng Cụ, Kỹ nghệ Sắt. Nữa kia 90 người theo Ban Kỹ Thuật Toán, tạo thành 2 lớp Ngũ A1 và Ngũ B1. Kể từ Niên khóa 1964 - 1965 nhà trường bắt đầu thi tuyển vào lớp Đệ Ngũ nhận 140 nam sinh mới với 3 lớp Ngũ A2, Ngũ A3, Ngũ B2 thuộc Ban Kỹ Thuật Toán. Năm lớp Đệ Ngũ Ban Toán sau này trở thành 4 lớp Đệ Từ A1, A2, B1, B2; rồi 3 lớp Tam A, B, C lên 3 ớp Nhị A, B, C và cuối cùng là 80 cậu của 2 lớp Nhất A Nhất B.
Nhờ bộ sên quái di thay cái thắng chân tự chế, xe đạp của dân Kỹ Thuật lao vun vút giữa hai hàng dương ven đường. Một chiếc GMC vua mài xú báp, thay hệ thống điều hòa xăng, với thầy lái, hơn chục trò kẻ đứng người đeo, đầu máy trần trụi, chẳng bảng số, vòng vòng khắp phổ không quên luợn qua Nữ Trung Học, Trinh Vương, Bồ Đề, quán kem Phi Điệp hoặc Phở Công Binh. Hết năm Đệ Tứ, tháng 6/1966 học sinh các Ban chuyên nghiệp rời khỏi trường. Bè bạn chia tay từ đó, buồn nên những học sinh khá của Ban Toản thường bỏ bê chuyện học hành, chẳng cần thì cử (Trung Học Đệ Nhất Cấp miễn 50%, Tú Tài Kỹ Thuật phần Thứ Nhất miễn 30%).
Đằng nào thì căn nhà Bác Kỳ vân là
chòi canh đơn độc, xua đuổi ma quái đằng sau hai trường song sinh : Kỹ Thuật Qui
Nhơn và Trường Sư Phạm. Những cồn cát được san bằng, hàng trăm cây dừa được trồng
lên, nhiều hàng phượng đỏ nỡ rộ những cánh hoa tươi thắm, ánh đèn điện rực sáng
nơi nhưng đãy nhà vàng nhạt toàn khu vực này đều có bản tay của không quá 190
thiếu niên non trẻ. Đến khi rời trường, 7 năm sau - 1969 - số học sinh Kỹ Thuật
đầu tiên đó còn lại khoảng 32 trò, tức một phần sáu sĩ số nhập học học lúc xa
xưa. Họ từng là hàng xóm láng giềng với Khóa 1 cho tới Khóa 7 Sư Phạm, người quen
trên khắp thành phố Qui Nhơn - nơi quy tụ những tài năng của miền Trung hiền
hòa và lịch lãm.
No comments:
Post a Comment